Wednesday 8 May 2024

Năm kịch bản cho nước Nga tương lai (P2)

NGA TRỞ THÀNH NƯỚC CHƯ HẦU

Giới tinh hoa Nga ủng hộ Putin thường khoe khoang rằng họ đã phát triển được một lựa chọn tốt hơn phương Tây. Quả thật, quan hệ Trung-Nga đã gây ngạc nhiên cho nhiều nhà phân tích biết về lịch sử chông gai giữa Bắc Kinh và Moscow, bao gồm cả sự chia rẽ Trung-Xô nổi tiếng hồi những năm 1960, lên đến đỉnh điểm là một cuộc chiến biên giới. Dù xung đột đã chính thức được giải quyết bằng việc phân định biên giới, Nga vẫn là quốc gia duy nhất đang kiểm soát phần lãnh thổ chiếm được từ Nhà Thanh nhờ những gì Trung Quốc gọi là những hiệp ước bất bình đẳng. Tuy nhiên, điều đó đã không ngăn cản Trung Quốc và Nga tăng cường quan hệ song phương, bao gồm cả việc tiến hành các cuộc tập trận quân sự chung quy mô lớn, vốn đã gia tăng về tần suất và phạm vi địa lý suốt 20 năm qua. Hai nước cũng chia sẻ về những bất bình của Nga liên quan đến việc NATO mở rộng và phương Tây can thiệp vào Ukraine, nơi sự hỗ trợ của Trung Quốc dành cho Nga vẫn đóng vai trò quan trọng.

Việc Trung Quốc và Nga xích lại gần nhau đã có từ trước khi Putin và Tập lên nắm quyền. Trong những năm 1980, chính Đặng Tiểu Bình là người đã tách Trung Quốc khỏi Moscow, một hành động có tính bước ngoặt hơn cả điều mà Mao Trạch Đông đã thực hiện trong thập niên 1960 và 1970. Đặng đã giúp các nhà sản xuất Trung Quốc giành được quyền tiếp cận thị trường nội địa Mỹ, vốn là thủ thuật đã tạo ra sự biến đổi ở Nhật Bản, sau đó là Hàn Quốc và Đài Loan. Việc Đặng "ly hôn" với Liên Xô cộng sản để bước vào cuộc "hôn nhân kinh tế" trên thực tế với các nhà tư bản Mỹ và châu Âu đã mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng đáng kinh ngạc, khai sinh ra tầng lớp trung lưu Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc và Nga vẫn gắn bó với nhau. Người kế nhiệm được lựa chọn cẩn thận của Đặng, Giang Trạch Dân, vốn từng được đào tạo tại một nhà máy của Liên Xô, đã tìm cách đưa Nga trở lại làm "tình nhân" mà không phá vỡ quan hệ hôn nhân Mỹ-Trung. Giang đã ra lệnh giúp hồi sinh tổ hợp công nghiệp quốc phòng bị bỏ hoang của Nga và hiện đại hóa ngành sản xuất vũ khí và quân sự của chính Trung Quốc. Năm 1996, Giang và Yeltsin tuyên bố "quan hệ đối tác chiến lược." Dù thương mại song phương còn ở mức khiêm tốn, sự bùng nổ kinh tế trong nước của Trung Quốc đã gián tiếp hồi sinh nền sản xuất dân sự thời Xô-viết bằng cách nâng mức cầu toàn cầu, theo đó nâng giá các đầu vào công nghiệp mà Liên Xô đã sản xuất với chất lượng thấp nhưng số lượng cao, từ thép đến phân bón. Tương tự như cách Mỹ giúp hình thành tầng lớp trung lưu ở Trung Quốc, Trung Quốc cũng góp phần tạo nên tầng lớp trung lưu ở Nga và sự bùng nổ kinh tế của Putin.

Tuy nhiên, quan hệ xã hội và văn hóa giữa hai dân tộc vẫn rất mong manh. Về mặt văn hoá, người Nga là người châu Âu, và có rất ít người Nga biết nói tiếng Trung (so với tiếng Anh). Dù một số người Trung Quốc lớn tuổi có thể nói tiếng Nga, vốn là di sản từ thời Moscow còn là trung tâm của thế giới cộng sản, nhưng con số đó không lớn, và giai đoạn mà một lượng lớn sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học Nga đã trở thành ký ức xa vời. Người Nga lo ngại về sức mạnh của Trung Quốc, trong khi nhiều người Trung Quốc đã chế nhạo Nga trên mạng. Và những người ủng hộ trung thành của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn không chịu tha thứ cho việc Moscow huỷ hoại chủ nghĩa cộng sản trên khắp lục địa Á-Âu và Đông Âu.

Tuy nhiên, quan hệ cá nhân sâu sắc giữa Putin và Tập đã bù đắp cho những nền tảng mong manh này. Hai người đàn ông đã xây dựng tình anh em thân thiết khi gặp nhau tới 42 lần (một con số đáng kinh ngạc) trong thời gian cầm quyền, công khai ca ngợi nhau là "bạn thân nhất của tôi" (Tập nói về Putin) và "bạn thân" (Putin nói về Tập). Tình đoàn kết độc tài giữa hai tâm hồn đồng điệu này được củng cố bởi chủ nghĩa chống phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa chống Mỹ, đã có từ lâu. Khi Trung Quốc chuyển từ đối tác cấp dưới thành đối tác cấp cao, hai nước láng giềng đã nâng cấp quan hệ, công bố "quan hệ đối tác chiến lược toàn diện" vào năm 2013. Về mặt chính thức, thương mại giữa Nga và Trung Quốc đã vượt 230 tỷ USD vào năm 2023, dù con số này chỉ dao động quanh mức 16 tỷ USD ba thập niên trước đó và chỉ ở mức 78 tỷ USD vào giữa những năm 2010 (sau khi điều chỉnh theo lạm phát). Hơn nữa, số liệu của năm 2023 không bao gồm hàng chục tỷ USD thương mại song phương được ngụy trang thông qua các bên thứ ba, như Kyrgyzstan, Thổ Nhĩ Kỳ, và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất.

Đến nay, Trung Quốc vẫn mua động cơ máy bay quân sự từ Nga. Nhưng trong các lĩnh vực khác, sự phụ thuộc là theo chiều ngược lại. Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đã đẩy nhanh việc ngành công nghiệp xe hơi nội địa của Nga rơi vào tay Trung Quốc. Moscow hiện đang có một lượng dự trữ nhân dân tệ đáng kể, vốn chỉ có thể được sử dụng cho hàng hóa Trung Quốc. Nhưng bất chấp vô số cuộc họp suốt hàng chục năm qua, vẫn chưa có một thỏa thuận cuối cùng về đường ống dẫn khí đốt tự nhiên mới từ Siberia đến Trung Quốc qua Mông Cổ. Giới lãnh đạo Trung Quốc đã cố gắng hết sức để tránh phải phụ thuộc vào Nga về năng lượng hoặc bất cứ thứ gì khác. Ngược lại, Trung Quốc hiện là nước dẫn đầu thế giới về năng lượng mặt trời và gió, đồng thời đang nỗ lực thay thế Nga để trở thành nước dẫn đầu thế giới về năng lượng hạt nhân.

Giới tinh hoa Nga, ngay cả khi họ kịch liệt lên án "quyết tâm" của Mỹ nhằm chinh phục hoặc chia cắt đất nước của họ, nhìn chung vẫn không lên tiếng phản đối việc Putin phục tùng Trung Quốc. Gần đây, các nhà bình luận Nga bắt đầu nhắc lại câu chuyện của Alexander Nevsky, Đại Vương công Novgorod hồi thế kỷ 13, một trong những vùng đất sau này sẽ hợp nhất thành Muscovy, tiền thân của Đế quốc Nga. Khi đối mặt với kẻ thù trên hai mặt trận, Nevsky đã chọn chiến đấu với quân thập tự chinh ở phía tây và đánh bại quân Teuton trong Trận Hồ Chudskoe, nhưng chấp nhận phục tùng quân Mông Cổ xâm lược ở phía đông, vượt Trung Á đến thủ đô của Hãn quốc Kim Trướng thuộc Mông Cổ để được công nhận là đại vương công của Nga. Trong câu chuyện này, những người theo Cơ đốc giáo phương Tây đã quyết tâm làm suy yếu bản sắc Cơ đốc giáo phương Đông của Nga, còn người Mông Cổ chỉ đơn giản muốn Nga tỏ lòng kính trọng. Và hàm ý là sự phục tùng Trung Quốc ngày nay không đòi hỏi Nga phải từ bỏ bản sắc của mình, nhưng nếu Nga thất bại trước phương Tây thì họ chắc chắn sẽ mất đi bản sắc.

Thật vớ vẩn. Người Nga đã phải mất hàng thế kỷ mới thoát khỏi cái mà sách giáo khoa ở trường của họ gọi chung là "ách" Mông Cổ, nhưng nước Nga vẫn tồn tại qua nhiều thế kỷ trong quan hệ với phương Tây mà chưa bao giờ trở thành phương Tây. Tuy nhiên, không phải phương Tây không nhất thiết có nghĩa là chống phương Tây – tất nhiên là trừ phi người ta đang cố gắng bảo vệ một chế độ phi tự do trong một trật tự thế giới tự do. Nước Nga đã tồn tại trong biên giới hậu Xô-viết suốt 20 năm trước khi Putin quyết định rằng tình hình là không thể chấp nhận được nữa. Giờ đây, sau khi đã đốt cháy cây cầu nối với phương Tây và đổ lỗi cho phương Tây về hành động đó, ông chẳng còn cách nào khác ngoài việc dựa vào thiện chí của Trung Quốc.

Sự mất cân bằng lớn và ngày càng gia tăng trong quan hệ Nga-Trung đã khiến nhiều nhà phân tích gọi Nga là chư hầu của Trung Quốc. Nhưng chỉ có Trung Quốc mới có thể quyết định việc một quốc gia có khác trở thành chư hầu của họ hay không, và theo đó, Bắc Kinh sẽ phải quyết định chính sách, thậm chí cả nhân sự ở Nga, đồng thời gánh vác phần lớn trách nhiệm. Hiện tại, Trung Quốc không có nghĩa vụ hiệp ước ràng buộc nào với Nga. Putin chỉ có lời nói của Tập, một người đã 70 tuổi – và cũng có thể chết. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục tố cáo nỗ lực bá quyền của Mỹ và hợp tác chặt chẽ với nhau. Một cam kết chung nhằm mang lại trật tự thế giới an toàn hơn cho chế độ chuyên chế của họ và giúp họ thống trị khu vực của mình đang thúc đẩy một chế độ chư hầu trên thực tế, dù cả hai đều không mong muốn điều đó.

NGA TRỞ THÀNH TRIỀU TIÊN

Khi sâu sắc thêm sự phụ thuộc của Nga vào Trung Quốc, Putin hoặc người kế nhiệm ông có thể lấy cảm hứng (một cách nghịch lý) từ trải nghiệm của Triều Tiên. Và điều đó có thể khiến Tập Cận Bình hoặc người kế nhiệm ông phải suy nghĩ lại. Khi Bắc Kinh can thiệp để giải cứu Bình Nhưỡng trong Chiến tranh Triều Tiên, Mao đã nhắc đến một câu tục ngữ, rằng nếu môi hở (Triều Tiên) thì răng lạnh (Trung Quốc). Phép ẩn dụ này vừa hàm ý về một vùng đệm, vừa hàm ý về một điều kiện phụ thuộc lẫn nhau. Trong những năm qua, một số nhà bình luận Trung Quốc đã nghi ngờ giá trị của việc hỗ trợ Triều Tiên, đặc biệt là sau vụ thử hạt nhân đầy thách thức của nước này vào năm 2006. Đối mặt với các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc, mà Trung Quốc cũng tham gia, giới lãnh đạo Triều Tiên đã tích cực thúc đẩy các chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa có thể nhắm đến không chỉ Seoul và Tokyo, mà còn cả Bắc Kinh và Thượng Hải. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Trung Quốc cuối cùng đã tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với Bình Nhưỡng vào năm 2018. Do Triều Tiên phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc về lương thực, nhiên liệu, và nhiều thứ khác, Bắc Kinh dường như đang kẹp Kim Jong Un trong một chiếc kìm sắt.

Tuy nhiên, những người trung thành với Bình Nhưỡng đôi khi vẫn cảnh báo rằng răng có thể cắn vào môi. Như giới cầm quyền ở Bắc Kinh đã nhiều lần nhận ra, Kim không phải lúc nào cũng vâng lời những người bảo trợ của mình. Năm 2017, ông ra lệnh sát hại người anh cùng cha khác mẹ là Kim Jong Nam, vốn đang được Trung Quốc bảo vệ ở nước ngoài. Kim dám bất chấp tất cả vì ông biết rằng dù mình có chọc giận Bắc Kinh đến mức nào thì Trung Quốc cũng không muốn chế độ ở Bình Nhưỡng sụp đổ. Nếu nhà nước Triều Tiên tan rã, bán đảo sẽ được thống nhất dưới chế độ Hàn Quốc, một đồng minh hiệp ước của Mỹ. Điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc cuối cùng đã thua trong Chiến tranh Triều Tiên, vốn đang trong tình trạng đình chiến trong hơn 70 năm qua. Việc mất đi vùng đệm Triều Tiên có thể làm phức tạp thêm các lựa chọn và lịch trình nội bộ của Bắc Kinh liên quan đến việc thống nhất với Đài Loan, vì Trung Quốc sẽ phải đối mặt với một môi trường thù địch hơn ở ngay gần kề. Trong lịch sử, bất ổn trên Bán đảo Triều Tiên thường có xu hướng lan sang Trung Quốc, và làn sóng người tị nạn có thể gây bất ổn cho vùng đông bắc Trung Quốc và thậm chí xa hơn. Vì vậy, Bắc Kinh dường như đang mắc kẹt trong một dạng phụ thuộc ngược với Bình Nhưỡng. Tập sẽ không muốn rơi vào tình thế tương tự với Moscow.

Nga và Triều Tiên khác nhau hoàn toàn. Diện tích lãnh thổ của Nga gấp hơn 142 lần Triều Tiên. Và dù mỗi người kế nhiệm trong gia đình Kim đều được đảng cộng sản phê chuẩn làm lãnh đạo, Triều Tiên thực chất đi theo chế độ cha truyền con nối, thứ mà Nga không có. Triều Tiên cũng là một đồng minh hiệp ước chính thức của Trung Quốc, thực ra là đồng minh duy nhất của Bắc Kinh trên thế giới, cả hai đã ký hiệp ước phòng thủ chung vào năm 1961. (Một số nhà bình luận Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không còn có nghĩa vụ phải bảo vệ Triều Tiên trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công bởi vì Bình Nhưỡng đã phát triển vũ khí hạt nhân, nhưng hiệp ước phòng thủ vẫn chưa bị bãi bỏ.) Triều Tiên cũng phải đối mặt với một nhà nước đối thủ là Hàn Quốc, do đó họ giống với Đông Đức (không còn tồn tại) hơn là với Nga.

Bất chấp những khác biệt này và cả những khác biệt khác, Nga vẫn có thể trở thành một Triều Tiên khổng lồ: đàn áp trong nước, bị cô lập, và vi phạm luật lệ quốc tế, được trang bị vũ khí hạt nhân, phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc nhưng vẫn có thể chống lại Bắc Kinh. Hiện chưa rõ Putin đã tiết lộ bao nhiêu về kế hoạch Ukraine của mình với Bắc Kinh vào tháng 2/2022, khi ông đưa ra tuyên bố chung về "quan hệ đối tác không giới hạn" giữa Trung Quốc và Nga – theo đó khiến Tập trông như đã tán thành hành động xâm lược của Nga. Không lâu sau khi Trung Quốc công bố kế hoạch hòa bình cho Ukraine, Tập đã tới Moscow để dự hội nghị thượng đỉnh, xuất hiện cùng Putin trên chiếc cầu thang được trang trí công phu ở Điện Kremlin mà vào năm 1939, Joachim von Ribbentrop, Ngoại trưởng Đức dưới thời Đức Quốc Xã, từng xuất hiện cùng với Stalin và Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov sau khi củng cố hiệp ước Hitler-Stalin. Nhưng một phát ngôn viên của Điện Kremlin đã bác bỏ khả năng hòa bình, dù chính phủ của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đã chấp nhận rằng tài liệu mơ hồ của Trung Quốc là đáng để thảo luận. (Phái đoàn hòa bình cấp thấp của Trung Quốc tới Kyiv đã thất bại.) Sau đó, khi các nhà ngoại giao Trung Quốc khoe khoang với toàn thế giới và đặc biệt là với châu Âu rằng Tập đã buộc Nga cam kết không sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine, chế độ của Putin lại tuyên bố họ đang triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật ở Belarus (Trung Quốc đã chỉ trích việc triển khai vũ khí.) Có lẽ không có hành động nào trong số này là nhằm mục đích xúc phạm trực tiếp. Nhưng chúng khiến các nhà quan sát băn khoăn về diễn biến ở Nga theo hướng kịch bản Triều Tiên, vì ngay cả khi không nằm trong chủ đích, các hành động trên đã cho thấy khả năng Moscow có thể khiến Bắc Kinh bối rối mà không phải gánh chịu hậu quả.

Kể từ cuộc binh biến của Prigozhin, Tập đã nhiều lần nhấn mạnh điều mà ông gọi là "lợi ích cơ bản của hai nước và nhân dân hai nước," ngụ ý rằng quan hệ đặc biệt giữa hai nước sẽ tồn tại lâu hơn chế độ lãnh đạo hiện tại ở Điện Kremlin. Trên thực tế, một Trung Quốc chuyên chế sẽ không dám để mất Nga nếu điều đó đồng nghĩa với việc xuất hiện một nước Nga thân Mỹ ở biên giới phía bắc, một kịch bản song song, nhưng lại nguy hiểm hơn nhiều so với một bán đảo Triều Tiên thống nhất thân Mỹ. Trước hết, việc tiếp cận dầu khí của Nga, một trong các biện pháp bảo vệ của Trung Quốc nếu bị phong tỏa trên biển, sẽ gặp rủi ro. Nhưng ngay cả khi Trung Quốc chỉ thu được rất ít lợi ích vật chất từ Nga, thì việc ngăn chặn Nga quay sang phương Tây vẫn là ưu tiên an ninh quốc gia hàng đầu. Một nước Nga nghiêng về phía Mỹ sẽ cho phép phương Tây tăng cường giám sát Trung Quốc (tương tự như việc Tổng thống Mỹ Richard Nixon nối lại quan hệ với Mao đã cho phép phương Tây giám sát Liên Xô từ Tân Cương). Tệ hơn nữa, Trung Quốc sẽ đột ngột cần phải đưa một lực lượng quân sự đáng kể từ các nơi khác đến bảo vệ biên giới phía bắc rộng lớn của mình. Vì vậy, Trung Quốc cũng phải sẵn sàng chấp nhận hành vi kiểu Triều Tiên từ Moscow.

NGA RƠI VÀO HỖN LOẠN

Chế độ của Putin sử dụng mối đe dọa từ sự hỗn loạn và bất định để ngăn chặn những thách thức và thay đổi nội bộ. Nhưng trong lúc họ gieo rắc hỗn loạn ở nước ngoài, từ Đông Âu đến Trung Phi và Trung Đông, chính Nga cũng có thể trở thành nạn nhân của sự hỗn loạn đó. Chế độ Putin ít nhiều có vẻ ổn định ngay cả dưới áp lực cực độ của chiến tranh quy mô lớn, và những dự đoán về sự sụp đổ do các lệnh trừng phạt sâu rộng của phương Tây đã không trở thành hiện thực. Tuy nhiên, các quốc gia Nga do St. Petersburg và Moscow lần lượt cai quản đều đã tan rã trong hơn 100 năm qua, cả hai lần đều bất ngờ nhưng là tan rã hoàn toàn. Có nhiều nguyên nhân giả định hợp lý cho sự tan rã trong tương lai gần: một cuộc nổi loạn trong nước vượt khỏi tầm kiểm soát, một hoặc nhiều thảm họa tự nhiên vượt quá khả năng quản lý của chính quyền, một tai nạn hoặc cố ý phá hoại các cơ sở hạt nhân, cái chết vô tình hoặc không vô tình của nhà lãnh đạo. Những quốc gia như Nga, với thể chế suy thoái và thiếu hụt tính chính danh, có thể dễ dàng bị tác động bởi những đợt thử thách căng thẳng bất ngờ. Hỗn loạn có thể là cái giá phải trả cho sự thất bại trong việc củng cố đất nước.

Tuy nhiên, bất chấp tình trạng hỗn loạn, Nga sẽ không tan rã theo kiểu Liên Xô. Như nhà phân tích chính cuối cùng của KGB từng than thở, Liên bang Xô-viết giống như một thanh chocolate: 15 nước cộng hòa liên bang đã được phân định rõ ràng như những mẩu nhỏ trên thanh chocolate, sẵn sàng bị bẻ gãy. Ngược lại, Liên bang Nga hiện bao gồm các đơn vị lãnh thổ không dựa trên sắc tộc và không có tư cách bán quốc gia (quasi-state). Các chủ thể tương đương cấp quốc gia hầu hết đều không có đa số chính thức và thường nằm sâu trong lục địa, chẳng hạn như Tatarstan, Bashkorto­stan, Mari El, và Yakutia. Nhưng Liên bang Nga có thể tan rã một phần ở các khu vực biên giới đầy biến động như Bắc Caucasus. Kaliningrad – một tỉnh nhỏ của Nga bị cô lập về mặt địa lý với phần còn lại của liên bang và nằm giữa Lít-va và Ba Lan, cách đất Nga hơn 400 dặm – cũng có thể dễ bị tổn thương.

Nếu sự hỗn loạn nhấn chìm Moscow, Trung Quốc có thể tái chiếm những vùng đất rộng lớn thuộc lưu vực sông Amur mà dòng họ Romanov đã chiếm đoạt từ Nhà Thanh. Trong khi đó, Nhật Bản có thể cưỡng bức thực thi các yêu sách của mình đối với Lãnh thổ phía Bắc, mà người Nga gọi là Quần đảo Kuril và Đảo Sakhalin, cả hai nơi đều từng do người Nhật cai trị, và là một phần của lục địa Viễn Đông Nga mà Nhật chiếm đóng trong cuộc nội chiến ở Nga. Đến lượt mình, Phần Lan có thể tìm cách giành lại vùng Karelia mà họ từng cai trị. Những hành động như vậy có thể khiến liên bang sụp đổ hoàn toàn, nhưng cũng có thể phản tác dụng bằng cách kích động một cuộc phản kháng quần chúng ở Nga.

Trong bối cảnh hỗn loạn, ngay cả khi không bị mất lãnh thổ lớn, thì các băng nhóm tội phạm truyền thống và tội phạm mạng vẫn có thể hoạt động mà không bị trừng phạt. Vũ khí hạt nhân và vũ khí sinh học, cũng như các nhà khoa học phát triển chúng, có thể bị phân tán. Về cơ bản, người ta đã tránh được cơn ác mộng theo sau sự sụp đổ của Liên Xô, một phần vì nhiều nhà khoa học Liên Xô tin rằng một nước Nga tốt đẹp hơn có thể xuất hiện. Nhưng nếu nước Nga tan rã, thì chẳng thể đoán trước được người Nga sẽ cân nhắc giữa hy vọng và giận dữ như thế nào. Sự hỗn loạn không nhất thiết dẫn đến kịch bản ngày tận thế. Nhưng nó có thể xảy ra. Và ngày tận thế có thể chỉ bị trì hoãn, thay vì được ngăn chặn hoàn toàn.

(còn tiếp 1 phần)

Tuesday 7 May 2024

Vụ bắt cóc người ngoài hành tinh ở Pascagoula, Mississippi

Vào lúc 23h ngày 11/10/1973, hai người đàn ông đột nhập vào đồn cảnh sát Pascagoula, một thị trấn nhỏ ở Mississippi, Mỹ. Họ thần sắc bấn loạn, nói chuyện không còn mạch lạc. Người lớn hơn còn lẩm bẩm một mình: Nước Mỹ, nước Mỹ sắp bị xâm lược hoàn toàn rồi!

Ai? Ai bạo gan đến mức dám xâm lược nước Mỹ? Những kẻ xâm lược là ai? Cảnh sát ngay lập tức vây quanh.

Chúng tôi đã bị người ngoài hành tinh bắt cóc!

Hai người đàn ông nhanh chóng được dẫn vào một căn phòng nhỏ, nơi họ kể một câu chuyện kỳ quái về việc bị bắt cóc bởi những sinh vật bất minh. Điều ly kỳ hơn nữa là cảnh sát thực sự tin họ. Hai năm sau, viên cảnh sát đã tiếp đãi họ năm đó, Glen Ryder, tự tin nói với phóng viên của tờ Washington Post rằng, hai người đàn ông này khẳng định không nói dối.

Vậy họ rốt cuộc đã kể câu chuyện gì, và làm thế nào họ thuyết phục được cảnh sát tin họ?

Trước tiên chúng ta hãy xem họ bị bắt cóc như thế nào.

Hai người đàn ông này là Charles Hickson, 42 tuổi và Calvin Parker, 18 tuổi. Cả hai người đều làm việc tại các xưởng đóng tàu ở địa phương. Sau khi tan làm ngày hôm đó, họ đi câu cá ở một xưởng đóng tàu bỏ hoang gần đó. Khoảng 9 giờ tối, hai người chợt nghe thấy một âm thanh vù vù, hình như từ phía sau truyền tới. Thật kỳ lạ, ai lại đến dã ngoại vào ban đêm ở nơi hoang vu như vậy?

Hai người khá bối rối khi nhìn lại, họ bất ngờ nhìn thấy một thứ mà họ chưa từng thấy trước đây. Đầu tiên có ánh sáng xanh. Sau đó thứ bay ra khỏi ánh sáng xanh là một quả bóng bầu dục khổng lồ, có kích thước bằng một chiếc xe tải lớn, có mái vòm màu xám. Quả bóng bầu dục bay cách họ khoảng 30 mét rồi bất động, lơ lửng ở cách mặt đất chưa đầy một mét.

Đột nhiên, có ba tiểu xám nhân cao khoảng 1,5 mét từ bên trong trôi ra, chúng trông rất xấu xí. Làn da xám xịt đầy nếp nhăn, không có cổ, tai nhỏ, mũi nhỏ và nhọn, mắt và miệng chỉ là những khe nhỏ. Các ngón tay của chúng giống càng cua, và các ngón chân của chúng bị mất hoàn toàn. Hai chân nối liền với nhau giống như nàng tiên cá, trông rất thô tháo, giống như chân voi.

Một trong những tiểu xám nhân nhanh chóng lao về phía Parker, chạm vào người cậu. Parker nói rằng cậu đã ngất đi vì sợ hãi quá mức. Phần còn lại của câu chuyện được kể bởi một mình Hickson 42 tuổi.

Ông cho biết hai tiểu xám nhân này đã nhanh chóng lao tới và tóm lấy ông, Ông phản kháng theo bản năng. Hickson khi còn trẻ là một người lính, đã từng ra chiến trường, lại có võ karate, hầu hết mọi người đều không thể là đối thủ của ông ấy. Tuy nhiên, khi còn chưa kịp trở tay, ông chợt cảm thấy cánh tay trái đau nhói, sau đó toàn thân tê dại và không thể cử động nổi. Hai tiểu xám nhân vác ông lên, đưa ông vào phi hành cơ. Vừa bước vào, ông đã có cảm giác mất trọng lượng.

Bên trong phi hành cơ rất sáng, nhưng không thể nhìn thấy đèn ở đâu. Hickson lơ lửng giữa không trung, chỉ có nhãn cầu là có thể cử động. Lúc này, ông nhìn thấy một "con mắt" có kích thước bằng quả bóng đá lơ lửng trên tường, chạy lên, xuống, trái, phải không dừng trên cơ thể mình. Cảm giác như thể ông đang được quét qua để kiểm tra thân thể. Sau khi quét xong, con mắt to lại biến mất vào trong tường.

Một vài tiểu xám nhân lặng lẽ ở bên cạnh ông. Hickson không thể chịu đựng được nữa, bắt đầu hét lên: Các người là ai, các người muốn làm gì? Những tiểu xám nhân dường như đang đáp lại ông, nhưng đối với tai Hickson, đó chỉ là âm thanh vo ve, ông không thể hiểu họ đang nói gì.

Hickson không nhớ chuyện gì xảy ra sau đó. Khi ông tỉnh lại, "quả bóng bầu dục" đã biến mất. Ông phát hiện bản thân đã trở lại bến tàu nhỏ nơi ông đang câu cá, nằm trên mặt đất. Parker đứng cách đó không xa, ánh mắt đờ đẫn, như thể linh hồn đã rời khỏi cơ thể. Hai người lảo đảo trở lại xe, thảo luận xem phải làm gì. Hickson không ngừng uống rượu để xoa dịu cơn sốc, trong khi Parker ngồi một bên và khóc.

Tại nước Mỹ, cơn sốt UFO đã nóng lên kể từ vụ tai nạn tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh ở Roswell vào năm 1947, thường có những báo cáo về UFO trên báo và tạp chí. Hickson bình tĩnh lại, nghĩ nghĩ trong tâm, có lẽ mình đã gặp phải người ngoài hành tinh. Sau đó tính sẽ báo cáo với quân đội. Tình cờ có một căn cứ không quân cách thị trấn không xa, nên hai người gọi điện thoại đến đó, ai ngờ bên đó nói rằng hiện tại chúng tôi không tiếp nhận những trường hợp như vậy, rồi cúp máy.

Hai người đều chết lặng. Sau đó đi gặp một tòa báo. Không ngờ, người gác cổng tòa báo lại nói rằng phải sáng mai phóng viên mới tới. Nếu có điều gì quan trọng, chúng ta sẽ nói về nó vào ngày mai. Lúc đó đã gần 11 giờ đêm. Hai người đã đưa ra quyết định cuối cùng là đến cơ quan công an để báo án. Sau đó mới bước vào cửa đồn cảnh sát.

Trắc nghiệm nói dối của đồn cảnh sát

Những người nghe họ kể câu chuyện này trong căn phòng nhỏ ngày hôm đó là cảnh sát trưởng Fred Diamond và sĩ quan Ryder. Hai người nghe xong liền nói, hai người hãy đợi ở đây một lát, rồi họ đi ra ngoài.

Bấy giờ chỉ còn lại Hickson và Parker trong phòng. Không có người ngoài nên hai người không tự chủ mà trò chuyện về những gì vừa trải qua. Parker cho biết, anh bị liệt và không thể cử động. Còn Hickson nói: "Tôi luôn biết họ là những người đến từ thế giới khác... Tôi chưa bao giờ nghĩ điều này sẽ xảy ra với mình."

Nhưng điều họ không ngờ tới là hai viên cảnh sát kia đã cố tình bỏ đi. Họ đã sử dụng một mẹo nhỏ. Căn phòng nhỏ này là phòng thẩm vấn. Ở góc phòng có một cái máy nhỏ, một cuộn băng đang lặng lẽ quay. Mọi điều Hickson và Parker nói với nhau đều được ghi lại trong băng.

Sau khi tiễn cả hai đi về vào đêm hôm đó, cảnh sát đã tụ tập xung quanh để nghe đoạn băng. Dựa trên kinh nghiệm xử lý các vụ án nhiều năm, họ cảm thấy hai người đàn ông này không hề nói dối. Bởi vì hai người bọn họ trông vô cùng sợ hãi, chắc chắn không thể là giả vờ được. Nếu kỹ năng diễn xuất thực sự tốt như vậy, thì có lẽ hai vị này đã đến Hollywood từ lâu thay vì làm công nhân ở thị trấn xa xôi này. Hơn nữa, không có người ngoài nào cả, nên cuộc trò chuyện giữa hai người không có sơ hở gì. Họ thậm chí còn kể chi tiết hơn về việc cửa đĩa bay mở ra như thế nào, và những tiểu xám nhân đã đi xuống như thế nào. Nếu họ không thực sự trải qua điều này, chỉ là bịa ra một câu chuyện, thì rất khó mà bịa ra được đến trình độ này.

Nhưng nếu điều này là sự thật thì thật khủng khiếp. Nói không chừng có lẽ người ngoài hành tinh thực sự muốn xâm nhập Trái Đất. Cảnh sát đã nhanh chóng báo cáo sự việc lên cấp trên. Chỉ trong vài ngày, vụ người ngoài hành tinh bắt cóc người này đã gây chú ý trên các tờ báo lớn, và lan truyền khắp thế giới. Đoạn băng này sau này trở thành "bằng chứng thép" chứng minh án người ngoài hành tinh bắt cóc này là một vụ án có thật.

Và thực sự có nhiều hơn một "bằng chứng thép" như vậy. Năm 2018, nhà điều tra UFO người Anh Philip Mantle nói rằng, ông đã tìm thấy một "bằng chứng thép" khác. Đây là một báo cáo từ một nguồn có thẩm quyền.

Thêm một "bằng chứng thép"

Chưa đầy 36 giờ sau khi xảy ra vụ bắt cóc, hai nhà chức trách trong cộng đồng nghiên cứu UFO của Mỹ là tiến sĩ Allen Hynek từ quân đội và giáo sư James Harder từ Đại học California đã lao vào điều tra.

Trong quá trình điều tra, Hickson và Parker dễ dàng vượt qua các bài kiểm tra nói dối, trải qua thôi miên và phối hợp trong các cuộc kiểm tra thể chất. Có lẽ vì cân nhắc quyền riêng tư, hai cơ quan chức năng đã không công bố điều tra chi tiết cho công chúng, nhưng cả hai cơ quan đều tuyên bố trong các cuộc họp báo sau đó, rằng họ tin những gì hai nhân chứng mục sở thị nói.

Điều gì khiến cơ quan chức năng khẳng định hai công nhân xưởng đóng tàu không nói dối? Nhiều năm sau, Philip Mantle tìm thấy bằng chứng trong đống tài liệu cũ. Đây là báo cáo kết quả khám sức khỏe năm đó. Báo cáo được viết bởi giáo sư Harder. Nó cho biết Hickson có ba vết kim đâm trên cánh tay trái. Còn Parker thì bị thương ở lòng bàn chân trái. Báo cáo cũng bao gồm một bộ ảnh về các vết thương.

Mantle cho biết những bức ảnh này chưa bao giờ xuất hiện công khai trước công chúng, ngay cả Hickson và Parker cũng không biết về sự tồn tại của tài liệu này. Điều này cũng làm tăng thêm tính xác thực của vấn đề này. Vì Hickson cho biết ông bị đau ở cánh tay khi trình báo vụ án, còn Parker cũng cho biết chân anh dường như bị bóp. Những vết sẹo trên bức ảnh cũng xuất hiện ở những vị trí tương ứng.

Mantle cho biết ông đã nghiên cứu đĩa bay trong nhiều thập kỷ, chưa bao giờ chứng kiến những vết thương như vậy được ghi nhập bởi các chuyên gia. Vì vậy, biên bản này và những bức ảnh này rất quý giá, có thể nói là một "bằng chứng thép".

Những nhân chứng khác

Tất nhiên, để mọi người tin thì chỉ bằng chứng vật chất thôi chưa đủ, phải có nhân chứng. Bến tàu nhỏ nơi họ đánh cá cách đường cái không xa. Vào lúc 21h tối, vẫn còn rất nhiều xe ra vào. Một vật thể phát sáng lớn như vậy bay trên bầu trời, lẽ nào không ai có thể nhìn thấy? Thật không may, vào năm đó, ngoại trừ Hickson và Parker, không có người thứ ba nào đứng ra tiết lộ rằng họ đã nhìn thấy UFO vào ngày hôm đó. Và điều này đã trở thành bằng chứng trong tay những người hoài nghi, những người tin rằng vụ bắt cóc có thể là giả.

Tuy nhiên, tám năm sau, vào năm 1981, một mục sư tên là Emmanuel P. Sigalas đã lên tiếng.

Sigalas truyền đạo vào thứ Năm hàng tuần cho những người có thói quen uống rượu. Ngày 11 tháng 10 tình cờ lại là thứ Năm, ông và một cảnh sát tên Raymond, và một cô gái trẻ lái xe đi truyền đạo, đi theo đường cao tốc Nasu gần bến tàu. Đột nhiên họ nhận thấy có một chiếc phi hành cơ hình trụ ở bên trái ô tô, dường như đang đi theo họ. Ban đầu Sigalas không để ý vì nghĩ rằng đó là một chiếc trực thăng đang làm nhiệm vụ từ một căn cứ không quân gần đó.

Tuy nhiên, chiếc máy bay này đi theo họ một cách chậm rãi. Khi họ lái nhanh, nó bay nhanh. Khi họ lái chậm, nó cũng bay chậm lại, nó tuyệt đối không vượt qua xe. Ai đang đùa họ? Máy bay quân sự thường không xuất hiện như thế này để dọa bình dân bách tính phải không?

Đúng lúc tâm lý họ càng khẩn trương, thì phi hành cơ đột ngột rẽ vào một góc, và biến mất ngay lập tức. Và hướng nó rẽ chính là bến tàu nhỏ nơi Hickson và Parker bị bắt cóc.

Sigalas cho biết trong một cuộc phỏng vấn, rằng dù không biết đĩa bay này đến từ đâu, hay những sinh vật đó là gì, nhưng ông tin những gì hai công nhân xưởng đóng tàu nói. Hơn nữa, ông không phải là người duy nhất nhìn thấy đĩa bay. Trên xe còn có hai nhân chứng, và họ đều là những người đáng tin cậy.

Sau đó, các nhân chứng khác lần lượt bước ra, cho biết họ đã nhìn thấy chiếc đĩa bay này vào ngày hôm đó. Điều này bao gồm một quân nhân đã nghỉ hưu, và một số cư dân gần đó.

Vào ngày 22 tháng 6 năm 2019, chính quyền thành phố địa phương đã dựng một tấm biển lịch sử tại bến tàu nhỏ nơi xảy ra vụ bắt cóc, ghi lại chi tiết vụ việc. Có thể coi đây là sự công nhận chính thức về vụ việc.

Đó là về vụ bắt cóc ở Pascagoula, nhưng thực ra câu chuyện chưa kết thúc ở đây. Giống như nhiều vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh khác, câu chuyện có phần tiếp theo.

Câu chuyện tiếp theo – người ngoài hành tinh trở lại thăm

Một ngày tháng 2 năm 1974, Hickson đang đi săn một mình trong rừng thì bất ngờ cảm nhận được một tin nhắn được người ngoài hành tinh gửi đến bằng cảm ứng tâm linh. Họ nói: "Hãy nói với mọi người rằng chúng tôi không có ý định làm hại bạn. Bạn là người được chọn, không cần phải sợ hãi."

Vào tháng 5 năm đó, một chiếc đĩa bay đã thực sự bám theo ô tô của ông, bay lơ lửng phía trên ô tô của Hickson 50 mét. Bà vợ của Hickson sợ hãi đến mức bắt đầu la hét. May mắn thay, lần này họ không mang Hickson đi, mà chỉ đi lượn quanh vài vòng rồi rời đi. Sau đó, khi trả lời phỏng vấn, Hickson nói rằng có một vật giống như nốt ruồi dưới mắt phải của ông, ông đã đến nhiều bệnh viện nhưng không tìm ra đó là gì. Nhưng bản thân ông lại tin rằng đó là con chip được người ngoài hành tinh cấy vào để theo dõi ông.

Và những gì xảy ra với Parker thậm chí còn kỳ lạ hơn. Khi Hickson bị bắt cóc, anh kỳ thực đã không hoàn toàn hôn mê, mà là bị trói vào đĩa bay, bị lột trần quần áo để kiểm tra thân thể. Anh cảm thấy bị xúc phạm nên đã im lặng không nói về chuyện này sau đó.

Mười chín năm sau, người ngoài hành tinh lại đến thăm anh. Anh được tiếp nhận bởi một người ngoài hành tinh có vẻ là phụ nữ. Nữ ngoại tinh nhân này nói rằng, năm đó bắt cóc họ là ba người máy. Cô ta mới là chân chính đến từ hành tinh khác.

Cô ta nói rằng họ và con người Trái Đất có chung một vị Thần, mọi điều trong "Kinh Thánh" giảng là thật. Hành tinh của họ đã bị hủy diệt, nên họ đến Trái Đất, muốn cùng tồn tại với con người trên Trái Đất. Họ đã đến Trái Đất từ hàng chục triệu năm trước. Lúc đó, con người trên Trái Đất đã kiến lập một nền văn minh phát triển cao độ, xây dựng các kim tự tháp. Nhưng đạo đức của họ không còn tốt nữa. Sau đó nền văn minh này đã bị tiêu hủy. Nền văn minh hiện nay trên Trái Đất cũng đang trên bờ vực diệt vong. Vì vậy, họ muốn Parker quay trở lại, gửi một thông điệp yêu cầu mọi người trên Trái Đất hãy trân trọng hành tinh của chính mình.

Hương Thảo biên dịch

--

 

Năm kịch bản cho nước Nga tương lai (P1)

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Và Mỹ nên chuẩn bị thế nào cho những gì sẽ xảy đến?

Một cách tình cờ, Vladimir Putin đã bước sang tuổi 71 vào ngày 7/10 năm ngoái, cũng là ngày mà Hamas tấn công Israel. Tổng thống Nga chắc hẳn đã xem vụ tấn công như quà sinh nhật cho mình – nó đã làm thay đổi bối cảnh xung quanh chiến dịch quân sự của ông ở Ukraine. Có lẽ là nhằm thể hiện thái độ của mình, ông đã yêu cầu Bộ Ngoại giao Nga mời các đại diện cấp cao của Hamas tới Moscow vào cuối tháng 10, theo đó làm nổi bật sự liên kết về lợi ích. Vài tuần sau, Putin tuyên bố ý định tranh cử nhiệm kỳ thứ năm trong một cuộc bầu cử không có lựa chọn vào tháng 3/2024, rồi sau đó tổ chức cuộc họp báo thường niên, trao cho một nhóm nhà báo dễ bảo đặc quyền được nghe ông tự mãn nói về sự mệt mỏi của phương Tây trước cuộc chiến ở Ukraine. "Gần như trên toàn bộ chiến tuyến, các lực lượng vũ trang của chúng ta, nói một cách khiêm tốn, là đang cải thiện vị thế của mình," Putin khoe trong buổi phát sóng trực tiếp.

Ngày 16/02 vừa qua, Nhà tù Liên bang Nga ra thông báo về cái chết đột ngột của nhà hoạt động đối lập Alexei Navalny, 47 tuổi, tại một trại giam phía trên Vòng Bắc Cực, nơi ông đang hướng dẫn hàng triệu người ủng hộ mình cách phản đối cuộc bầu cử của Putin. Một tháng sau, điều tối đa mà người ta có thể nói là Điện Kremlin chí ít cũng đã chịu đợi cho đến khi cuộc bỏ phiếu bầu tổng thống được tổ chức xong mới công bố chiến thắng của Putin.

Putin tự xem mình là sa hoàng mới. Nhưng một sa hoàng thực sự sẽ không phải lo lắng về một cuộc khủng hoảng kế vị đang cận kề và những ảnh hưởng của nó lên quyền lực của ông trong hiện tại. Nhưng Putin có lo lắng, và đó là một phần lý do tại sao ông phải can thiệp vào các cuộc bầu cử. Ông sẽ giữ chức vụ của mình cho đến năm 2030, khi ở tuổi 78. Tuổi thọ của nam giới ở Nga thậm chí không đạt tới 67, nhưng những ai sống đến 60 tuổi có thể mong đợi mình sẽ sống đến khoảng 80. Những người sống trên 100 tuổi được xác nhận ở Nga rất ít. Putin đương nhiên có thể sống đến 100 tuổi. Nhưng ngay cả Stalin cũng chết.

Người tiền nhiệm của Putin, Boris Yeltsin, hóa ra là vị sa hoàng hiếm hoi chịu chỉ định người kế nhiệm và dọn đường cho người đó lên nắm quyền. Năm 1999, đối mặt với bệnh tật cùng nỗi lo rằng ông và "gia đình" gồm những tay chân tham nhũng có thể phải đối mặt với án tù sau khi ông từ chức, Yeltsin đã quyết định chọn Putin để bảo vệ quyền tự do và di sản của mình. "Hãy chăm lo cho nước Nga," Yeltsin đưa ra lời khuyên cho Putin trước khi rời nhiệm sở. Năm 2007, ở tuổi 76, ông qua đời như một người tự do. Nhưng người được bảo trợ đã không noi gương người bảo trợ của mình. Năm 2008, Putin tạm thời rời chức tổng thống sau khi thừa nhận giới hạn hai nhiệm kỳ liên tiếp mà Yeltsin phải đối mặt. Sau đó, ông bổ nhiệm một kẻ vô danh chính trị thay thế mình, còn mình thì lui về giữ chức thủ tướng, nhưng đã sớm quay lại với nhiệm kỳ tổng thống thứ ba vào năm 2012 và sau đó là thứ tư. Cuối cùng, ông yêu cầu cơ quan lập pháp bù nhìn sửa đổi hiến pháp để loại bỏ mọi giới hạn nhiệm kỳ tổng thống. Stalin cũng từng cố gắng níu giữ quyền lực, bất chấp tình trạng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Ông từ chối chấp nhận một người kế vị, để rồi cuối cùng ngã gục sau một cơn đột quỵ và qua đời bên vũng nước tiểu của chính mình.

Putin không phải là Stalin. Nhà lãnh đạo người gốc Gruzia đã dựng nên một siêu cường trong khi khiến hàng chục triệu người phải chết trong nạn đói, trại lao động cưỡng bức, hầm hành quyết, và một cuộc chiến phòng thủ được quản lý kém. Ngược lại, Putin đã dựng nên một quốc gia bất hảo trong khi đẩy hàng trăm ngàn người đến chỗ chết trong một cuộc chiến phi nghĩa. Tuy nhiên, một so sánh vẫn là hữu ích. Hệ thống của Stalin không thể tồn tại nếu không có ông, ngay cả khi vẫn có một đảng cầm quyền được thể chế hóa. Thế nhưng, giữa đống tro tàn, kể từ khi Liên Xô tan rã kéo dài đến tận năm 1991, Putin đã củng cố một chế độ chuyên chế mới. Sự kết hợp giữa tính dễ bị tổn thương và sự phụ thuộc vào quá khứ này xuất phát từ nhiều yếu tố không thể dễ dàng thay đổi: địa lý, bản sắc đế quốc-dân tộc, văn hóa chiến lược đã ăn sâu vào tâm trí. (Nhà văn người Nga sống ở thế kỷ 19 Mikhail Saltykov-Shchedrin đã châm biếm đất nước của ông, rằng mọi thứ thay đổi chóng mặt cứ sau 5 đến 10 năm, nhưng lại chẳng có gì thay đổi suốt 200 năm.) Nhưng dù Putin có ra đi lúc nào hay bằng cách nào, thì chế độ chuyên chế cá nhân của ông, và rộng hơn là nước Nga, cũng phải đối mặt với những câu hỏi về tương lai.

Chế độ của Putin tự xem mình là tàu phá băng, thay mặt nhân loại đập tan trật tự quốc tế do Mỹ lãnh đạo. Washington cùng các đồng minh và đối tác của họ đã nhiều lần cho phép mình bị Putin làm cho bất ngờ – ở Libya, Syria, Ukraine, và Trung Phi. Điều này đã làm dấy lên lo ngại về điều bất ngờ khó chịu tiếp theo. Nhưng về lâu dài thì sao? Xét đến những yếu tố bất khả kháng như việc lãnh đạo qua đời và các yếu tố cấu trúc rộng lớn hơn, nước Nga liệu sẽ phát triển, hoặc không phát triển, như thế nào trong thập niên tới và thậm chí là xa hơn?

Những độc giả đang cố gắng hình dung quỹ đạo của nước Nga nên tham khảo thị trường cá cược. Tuy nhiên, điều mà các quan chức phương Tây và những người ra quyết định khác cần làm là xem xét một loạt các kịch bản: ngoại suy từ các xu hướng hiện tại theo cách có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch dự phòng. Các kịch bản được lập ra là để người ta không bị bất ngờ. Rõ ràng, thế giới liên tục đối mặt với bất ngờ và điều không thể đoán trước vẫn có thể xảy ra như thiên nga đen. Giữ thái độ khiêm tốn là điều cần thiết. Tuy nhiên, hiện vẫn có thể dự đoán năm tương lai có thể xảy ra cho nước Nga, và Mỹ cùng các đồng minh nên lưu ý đến chúng.

Trải qua nhiều đời tổng thống, Washington đã thấm thía bài học khó khăn rằng họ thiếu đòn bẩy để biến đổi những đất nước như Nga và Trung Quốc, vốn xuất thân từ những đế chế trên lục địa Á-Âu, luôn tự hào là những nền văn minh cổ đại đã có từ rất lâu trước khi Mỹ được thành lập, chứ chưa nói đến sự hình thành của phương Tây. Họ không phải là nhân vật trong vở kịch Pygmalion của George Bernard Shaw, họ không thể được biến đổi từ một cô gái quê mùa thành một quý cô thanh lịch, nghĩa là không thể biến đổi từ chế độ độc tài, đế quốc thành những bên tham gia có trách nhiệm trong hệ thống quốc tế do Mỹ thống trị. Những nỗ lực thay đổi "bản chất" của họ luôn dẫn đến sự chỉ trích và vỡ mộng từ cả hai phía. Các nhà lãnh đạo như Putin và Tập Cận Bình của Trung Quốc đã không đảo ngược một tiến trình đầy hy vọng; nhưng ở một mức độ không hề nhỏ, họ chính là kết quả của tiến trình đó. Vì vậy, Washington và các đối tác không nên tin rằng mình có thể định hình quỹ đạo của Nga. Thay vào đó, họ nên chuẩn bị cho bất cứ chuyện gì sẽ xảy ra.

NGA GIỐNG NHƯ PHÁP

Pháp là một quốc gia có truyền thống tập quyền và quân chủ lâu đời – đồng thời cũng có truyền thống cách mạng đầy rắc rối. Các nhà cách mạng Pháp đã bãi bỏ chế độ quân chủ chỉ để chứng kiến nó quay trở lại dưới vỏ bọc của một vị vua và sau đó là hoàng đế, rồi lại biến mất khi các nền cộng hòa đến rồi đi. Pháp đã xây dựng và đánh mất một đế chế thuộc địa rộng lớn. Suốt nhiều thế kỷ, những người cai trị nước Pháp, không ai khác ngoài Napoleon, đã đe dọa các nước láng giềng của mình.

Ngày nay, những truyền thống này vẫn tồn tại theo nhiều cách. Như nhà tư tưởng người Pháp Alexis de Tocqueville đã nhận xét một cách sắc sảo trong tác phẩm Chế độ cũ và Cuộc cách mạng (1856), những nỗ lực của các nhà cách mạng nhằm dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ rốt cuộc lại vô tình củng cố các cấu trúc nhà nước tập quyền. Bất chấp việc củng cố hệ thống cộng hòa, chế độ quân chủ Pháp vẫn tồn tại một cách tượng trưng trong các cung điện ở Versailles và nhiều nơi khác, trong các bức tượng các vị vua của triều đại Bourbon có mặt khắp nơi, và trong một hình thức cai trị tập quyền quá mức với quyền lực và của cải phần lớn tập trung ở Paris. Ngay cả khi không còn là một đế chế chính thức, Pháp vẫn là một đất nước đầy kiêu hãnh, được nhiều công dân và người hâm mộ xem là một nền văn minh với ý thức về một sứ mệnh đặc biệt trên thế giới và ở châu Âu, cùng với một ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi vượt ra ngoài biên giới của mình (60% người nói tiếng Pháp ngày nay là công dân của nước khác). Nhưng điều quan trọng nhất là nước Pháp ngày nay được hưởng nền pháp quyền và không còn đe dọa các nước láng giềng nữa.

Nước Nga cũng sở hữu một truyền thống nhà nước tập quyền và quân chủ, vốn sẽ tồn tại bất kể bản chất của hệ thống chính trị tương lai, và một truyền thống cách mạng tuy không còn là một cuộc phiêu lưu đang diễn ra, nhưng vẫn tồn tại trong các thể chế và ký ức như một nguồn cảm hứng và cảnh báo. Chắc chắn, chế độ chuyên chế của Romanov thậm chí còn ít bị ràng buộc hơn so với chế độ quân chủ của Bourbon. Cách mạng ở Nga cũng tàn bạo và tàn khốc hơn cách mạng ở Pháp. Đế chế đã mất của Nga nằm ngay liền kề chứ không phải ở nước ngoài, và đã tồn tại lâu hơn – chính xác là gần bằng thời gian tồn tại của nhà nước Nga hiện đại. Ở Nga, sự thống trị của Moscow đối với phần còn lại của đất nước còn vượt xa cả Paris ở Pháp. Phạm vi ảnh hưởng địa lý của Nga cũng lấn át của Pháp, bao trùm toàn bộ đất nước ở châu Âu, cũng như vùng Caucasus, Trung Á, và Đông Á. Rất ít quốc gia có nhiều điểm chung với Nga. Nhưng có lẽ Pháp là nước có nhiều điểm chung nhất.

Nước Pháp đương đại là một đất nước vĩ đại, dù không thể tránh khỏi những lời chỉ trích. Một số người lên án những gì họ cho là sự can thiệp quá nhiều của nhà nước, mức thuế cao cần thiết để chi trả cho các dịch vụ không đồng đều, cũng như tinh thần xã hội chủ nghĩa rộng rãi. Số khác lại nhắm vào những gì họ cho là tham vọng cường quốc và chủ nghĩa sô-vanh văn hóa của Pháp. Và còn những người than thở về chính sách ngặt nghèo của Pháp trong việc hòa nhập người nhập cư. Nhưng chúng ta có thể thất vọng về khía cạnh này hoặc khía cạnh khác của Pháp và vẫn công nhận rằng nước này cung cấp mô hình thực tế gần nhất cho một nước Nga hoà bình, thịnh vượng. Nếu Nga trở nên giống như Pháp – một nền dân chủ với hệ thống pháp quyền, tự hào về quá khứ chuyên chế và cách mạng, nhưng không còn đe dọa các nước láng giềng – thì đó sẽ là một thành tựu rất đáng kể.

Nước Pháp đã trải qua một con đường đầy gian nan để trở nên như ngày nay. Hãy nhớ lại thời kỳ khủng bố cách mạng của Robespierre, chủ nghĩa bành trướng thảm khốc của Napoléon, cuộc tự đảo chính của Napoléon III (từ tổng thống dân cử trở thành hoàng đế), sự thâu tóm quyền lực của Công xã Paris, sự thất bại nhanh chóng của Pháp trong Thế chiến II, chế độ thông đồng Vichy, chiến tranh thuộc địa Algeria, và những hành động ngoài vòng pháp luật của Tổng thống Charles de Gaulle sau khi xuất ngũ vào năm 1958. Người ta có thể bị cám dỗ bởi quan điểm cho rằng nước Nga cần de Gaulle của riêng mình để giúp củng cố một trật tự tự do từ trên xuống, dù vẫn chưa có vị cứu tinh nào như vậy xuất hiện trong tương lai gần. Nhưng chỉ có những kẻ viết sách thánh mới tin rằng một người đàn ông duy nhất đã tạo ra nước Pháp ngày nay. Dù có nhiều giai đoạn bất ổn, nhưng trải qua nhiều thế hệ, Pháp đã phát triển các thể chế chuyên nghiệp, công bằng – một cơ quan tư pháp, một nền công vụ, một không gian công cộng tự do và cởi mở – của một quốc gia dân chủ, cộng hòa. Vấn đề không nằm ở việc Yeltsin không phải de Gaulle, mà là nước Nga năm 1991 còn lâu mới đạt được một trật tự hiến pháp ổn định, theo kiểu phương Tây như nước Pháp ba thập niên trước đó.

NƯỚC NGA THU MÌNH

Một số người Nga có thể hoan nghênh việc đất nước họ chuyển đổi thành một quốc gia giống như Pháp, nhưng những người khác lại xem đó là một thảm hoạ. Những gì thế giới ngày nay nhìn nhận là chủ nghĩa Putin đã lần đầu tiên xuất hiện trong các tạp chí tiếng Nga định kỳ và các hiệp hội tình nguyện của những năm 1970: một chủ nghĩa dân tộc chuyên chế, phẫn nộ, thần bí, lấy chủ nghĩa bài phương Tây làm nền tảng, ủng hộ các giá trị được cho là truyền thống, và vay mượn một cách vụng về từ chủ nghĩa Slavơ, chủ nghĩa Á-Âu, và Chính thống giáo Đông phương. Hoàn toàn có thể tưởng tượng một nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chuyên chế ủng hộ những quan điểm này, và giống như Putin, ông có niềm tin không gì lay chuyển được rằng Mỹ đang cố gắng hủy diệt Nga, nhưng cũng vô cùng lo lắng trước tương lai lâu dài mờ mịt của đất nước và sẵn sàng chấp nhận đổ lỗi cho Putin về điều đó. Nói cách khác, ông là một người thu hút được sự ủng hộ của cử tri trung thành với Putin, nhưng lại đưa ra quan điểm rằng cuộc chiến chống Ukraine đang gây tổn hại cho Nga.

Nhân khẩu học là một điểm nhức nhối đặc biệt đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc dựa trên huyết thống và lãnh thổ ở Nga, chưa kể đến giới quân nhân và nhiều dân thường. Kể từ năm 1992, dù có lượng nhập cư đáng kể nhưng dân số Nga vẫn liên tục giảm. Dân số trong độ tuổi lao động của nước này đạt đỉnh vào năm 2006 với khoảng 90 triệu người và hiện chỉ còn ở mức dưới 80 triệu người, một xu hướng tai hại. Chi tiêu cho cuộc chiến ở Ukraine đã thúc đẩy cơ sở công nghiệp quốc phòng của Nga, nhưng những hạn chế do lực lượng lao động giảm sút đang ngày càng trở nên rõ ràng hơn ngay cả trong lĩnh vực được ưu tiên này, vốn đang thiếu khoảng năm triệu lao động có trình độ so với nhu cầu. Tỷ lệ người lao động thuộc nhóm tuổi làm việc hiệu quả nhất – từ 20 đến 39 – sẽ tiếp tục giảm trong thập niên tới. Không có điều gì, thậm chí kể cả việc bắt cóc trẻ em từ Ukraine, vụ việc khiến Tòa án Hình sự Quốc tế truy tố Putin, có thể đảo ngược được sự suy giảm dân số ở Nga, vốn đang trở nên trầm trọng hơn do tỷ lệ thương vong cao chót vót trong cuộc chiến Ukraine.

Những tiến bộ về năng suất có thể bù đắp cho những xu hướng nhân khẩu học này hiện vẫn chưa xuất hiện. Nga gần như xếp cuối cùng trên thế giới về quy mô và tốc độ tự động hóa trong sản xuất: quá trình robot hóa của nước này thua xa so với mức trung bình của thế giới. Ngay từ trước khi cuộc chiến mở rộng ở Ukraine bắt đầu tiêu tốn ngân sách nhà nước, Nga đã xếp hạng thấp một cách đáng ngạc nhiên trong bảng xếp hạng toàn cầu về chi tiêu giáo dục. Trong hai năm qua, Putin đã chấp nhận đánh mất phần lớn tương lai kinh tế của đất nước khi ông buộc hàng ngàn nhân viên công nghệ trẻ tuổi chạy trốn khỏi chế độ nghĩa vụ quân sự và nạn đàn áp. Đúng, nhóm người này là đối tượng mà những kẻ cuồng tín dân tộc cho là không cần thiết, nhưng trong sâu thẳm, nhiều người hiểu rằng một cường quốc cần đến họ.

Nhờ vị trí địa lý trải rộng khắp Á-Âu và quan hệ lâu dài với nhiều nơi trên thế giới, cũng như chủ nghĩa cơ hội, Nga vẫn có thể nhập khẩu nhiều linh kiện không thể thiếu cho nền kinh tế của mình bất chấp lệnh trừng phạt của phương Tây. Bất chấp sự tháo vát này, và bất chấp việc công chúng đã quen với chiến tranh, giới tinh hoa Nga vẫn biết về những số liệu thống kê đáng sợ. Họ ý thức được rằng, là nước xuất khẩu hàng hóa, sự phát triển lâu dài của Nga phụ thuộc vào việc chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Cuộc xâm lược Ukraine của Putin đã khiến việc sử dụng phương Tây làm nguồn cung trở nên khó khăn hơn, và việc ông ủng hộ chủ nghĩa hư vô của Hamas đã làm căng thẳng mối quan hệ của Nga với Israel, nhà cung cấp chính của nhiều hàng hóa và dịch vụ công nghệ cao. Ở mức độ cơ bản hơn, giới tinh hoa Nga đang bị tách biệt về mặt vật chất với các nước phát triển: những nơi ẩn náu ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE), dù dễ chịu đến đâu, cũng không thể thay thế các biệt thự và trường nội trú ở châu Âu.

Dù chế độ chuyên chế của Nga một lần nữa chứng minh sức bền trong chiến tranh, nhưng việc Putin thiếu đầu tư và đa dạng hóa trong nước, tình trạng khó khăn về nhân khẩu học ngày càng gia tăng, và vai trò của ông trong việc khiến đất nước rơi vào tình trạng lạc hậu về công nghệ vẫn có thể buộc những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn – trong số đó có nhiều người thuộc tầng lớp tinh hoa – phải thừa nhận rằng Nga đang đi trên con đường tự diệt. Nhiều người đã kết luận một cách riêng tư rằng tổng thống Nga đã gắn liền sự tồn vong của chế độ cá nhân già cỗi của ông ta với sự tồn vong của đất nước trong vai trò một cường quốc. Chí ít về mặt lịch sử, những nhận thức như vậy đã dẫn đến một sự thay đổi, chuyển từ bành trướng ra nước ngoài sang phục hồi trong nước. Mùa hè năm ngoái, khi đội quân của thủ lĩnh lính đánh thuê Yevgeny Prigozhin hành quân đến Moscow, họ đã không được các sĩ quan quân đội ủng hộ, đó là một lý do khiến Prigozhin hủy bỏ cuộc binh biến. Nhưng nó cũng không khuyến khích những người ủng hộ chế độ đứng ra bảo vệ Putin. Tình tiết này vô tình tạo ra một cuộc trưng cầu dân ý bất đắc dĩ về chế độ, tiết lộ sự trống rỗng bên trong vỏ bọc đàn áp.

Nước Nga thu mình có thể là kết quả từ việc đẩy nhanh sự ra đi của Putin, hoặc có thể xảy ra sau cái chết tự nhiên của ông. Nó cũng có thể xảy ra mà không cần loại bỏ Putin, thông qua các đe dọa chính trị có ý nghĩa đối với sự cai trị của ông. Dù điều đó có xảy đến cách nào, nó cũng sẽ liên quan đến các động thái chiến thuật được thúc đẩy bởi sự thừa nhận rằng Nga thiếu phương tiện để chống lại phương Tây mãi mãi, họ phải trả giá cắt cổ cho việc cố gắng làm điều đó, và có nguy cơ để mất vĩnh viễn các mối quan hệ quan trọng ở châu Âu để đổi lấy sự phụ thuộc nhục nhã vào Trung Quốc.

(còn tiếp 2 phần)