Mạnh Kim
Khó có thể biết Lý Vĩnh Thắng – tên tiếng Việt của Jacky Ly – sẽ trở thành người như thế nào nếu Thắng và gia đình vẫn còn ở một ngôi làng nghèo miền núi ở Phó Bảng, Hà Giang. Có thể Thắng là một "học sinh nghèo vượt khó" xuất sắc nhưng cũng có thể Thắng chỉ là một anh nông dân chăn bò, làm nương rẫy, như thời niên thiếu, và chôn cuộc đời ở một ngôi làng nhỏ đến mức thậm chí gần như "không có tên" trên bản đồ các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam. Câu chuyện về Jacky Ly là trường hợp điển hình của vô số gia đình Việt Nam trong đó việc quyết định tìm kiếm tự do bằng con đường vượt biên là chọn lựa duy nhất và quyết định đó đã mang lại những bước ngoặt thay đổi khó có thể ngờ...
Băng rừng vượt biên
Việc chuẩn bị được thực hiện chu
đáo và cẩn thận. Trước khi đưa cả nhà đi, ông Lý Hội Quyền – cha của anh Lý
Vĩnh Thắng – đã một mình lẻn sang Vân Nam-Trung Quốc để
dò xét và tìm chỗ ở tạm. Một đêm năm 1987, Thắng – lúc đó 10 tuổi – cùng hai
chị và đứa em gái được bố mẹ chở trên xe đạp. Hành lý mang theo chỉ là vài bộ
đồ và ít thức ăn. Họ bắt đầu cuộc hành trình bí mật. Phải kín đáo và thận trọng
tuyệt đối. Chỉ một dấu hiệu đáng ngờ, họ cũng có thể bị hàng xóm trình báo và
bị công an bắt. Đây là lần thứ hai họ vượt biên. Lần thứ nhất, đi từ Hải Phòng, trước đó vài
năm (1979), đã thất bại. Sau chuyến đi không thành đó, gia đình ông Lý đến sống
ở Tân Mỹ, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Họ lầm lũi sinh nhai bằng nghề nông. Tuy
nhiên, ông Lý vẫn âm thầm tìm cách thoát. Hành trình vượt biên lần thứ hai khởi
hành từ đây, cách biên giới Việt-Trung đến 400 km.
Băng qua biên giới một cách an toàn
là điều không đơn giản. Vết tích cuộc chiến Việt-Trung 1979 vẫn còn in đậm. Cả
hai bên biên giới đều đầy mìn và bẫy chông. Để tránh bị phát hiện bởi lính biên
phòng của cả hai bên, gia đình ông Lý phải len lỏi đi trên những con đường mòn
nhỏ, xuyên rừng. Có những đoạn ông Lý phải cõng đứa con gái sáu tuổi gần như
suốt ngày lẫn đêm (sau này khi kể lại, ông nói rằng nếu không phải là cô con
gái của ông mà là khối vàng thì ông cũng sẵn sàng vất bỏ vì quá cực
nhọc).
Sau 14 ngày, gia đình ông Lý vào
đất Vân Nam-Trung Quốc. Thở phào. Nhưng chưa nhẹ nhõm. Không giấy tờ tùy thân,
họ có thể bị nghi ngờ, tố giác và bị công an Trung Quốc bắt đuổi trở về Việt
Nam. Cả nhà ông Lý phải di chuyển liên tục và có khi phải chia ra ở rải rác. Họ
chỉ tá túc một chỗ trong vài tuần rồi lại tìm nơi khác. Cuối cùng, họ đến Phòng Thành, Quảng Tây.
Tại đây, ông Lý cùng một số người Việt khác, cũng vượt biên trốn khỏi Việt Nam,
tìm cách đi khỏi Trung Quốc. Họ tìm được một đầu mối giới thiệu mua thuyền và
thuê tài công. Họ dự tính thoát đến Macau. Nếu Macau từ chối
nhận tỵ nạn, họ sẽ đi Hong Kong. Nếu Hong Kong khước từ, họ sẽ đi Nam Triều
Tiên. Nếu lại bị từ chối, họ sẽ đi Nhật Bản!
Ngày 18-6-1988, 72 người tỵ nạn,
trong đó có sáu thành viên gia đình ông Lý, lục tục xuống chiếc thuyền đánh cá
cũ nát. Con thuyền dài 12m-rộng 3m chỉ có mái che sơ sài cho khoang động cơ.
Mọi người mang theo lương thực cho khoảng 30 ngày và phó mặc số phận cho hai
tài công. Sau vài ngày lênh đênh, giữa cái nắng lột da và những cơn đói dữ dội,
họ bị một trận bão dập tơi bời, những tưởng thuyền bị lật úp và tất cả chết
đuối giữa biển. Khi đến Bắc Hải, thành phố phía Tây Nam Trung
Quốc, họ lại bị một "cú sét đánh" thậm chí choáng váng
hơn: qua radio, họ biết tin Macau lẫn Hong Kong vừa tuyên bố ngưng nhận người
tỵ nạn Việt Nam. Bất kỳ người tỵ nạn Việt Nam nào đến Hong Kong sau ngày
16-6-1988 đều bị đưa vào trại tập trung để trả lại quê nhà. Không lẽ quay về?
Họ liều mạng đi tiếp.
Sau 13 ngày "nướng" mình
dưới nắng biển, họ đến gần Macau. Hai tài công rời thuyền. Họ được thuê chỉ để
đưa mọi người đến đây, như thỏa thuận. Một người Việt, tên Thái, bất đắc dĩ trở
thành người lái thuyền. Sự thiếu kinh nghiệm đi biển lập tức được "trả
giá" sau đó khi thuyền va vào đá ngầm. Hỗn loạn và sợ hãi. Thật may là họ
được cảnh sát biển Macau phát hiện và cứu. Sau khi giúp sửa thuyền, cảnh sát
Macau yêu cầu tất cả rời đi. Mọi người lại ra khơi, gần như trong vô vọng. Cuối
cùng, ngày 1-7-1988, thuyền đến Hong Kong. Đây là con thuyền thứ 47 của người
tỵ nạn Việt Nam đến sau khi Hong Kong ban bố chính sách mới dành cho người tỵ
nạn kể từ ngày 16-6-1988.
Những năm tháng ở trại tỵ nạn Hong
Kong in sâu ký ức Thắng. Nếu không được bố mẹ và hai chị dạy bảo và che chở,
Thắng rất có thể đã trở thành đứa bé hư hỏng đi theo đám băng nhóm giang hồ
thuộc thành phần tỵ nạn đến từ các tỉnh khác của Việt Nam. Trại tỵ nạn chật
chội, đông đúc, với đủ thành phần phức tạp, đã tạo thành một xã hội Việt Nam
thu nhỏ nơi người ta không chỉ giành giật miếng ăn mà còn gây ra những hành vi
tội phạm. Hãm hiếp và đâm chém xảy ra như cơm bữa. Sau hơn hai năm sống trong
cảnh nhốn nháo, gia đình ông Lý cuối cùng được Chính phủ Mỹ đồng ý cho tỵ nạn.
Họ được đưa qua Philippines sáu tháng
để học tiếng Anh trước khi đến Mỹ...
Bắt đầu từ tay trắng
Nước Mỹ. North Carolina. Cuộc hành
trình dài đã đến đích. Tuy nhiên, một chặng mới lại bắt đầu. Tất cả đều chỉ có
hai bàn tay trắng. Họ đã rời con thuyền rách nát số 47. Họ đã rời khu ổ chuột
tỵ nạn Hong Kong. Họ đang đặt chân đến một vùng đất xa lạ và tiếp tục đi trên
những con đường thậm chí khó khăn và khó lường hơn cả những con đường mòn vượt
rừng xuyên bóng đêm băng qua Vân Nam ngày nào. Phần tiếp theo của câu chuyện là
chuỗi nỗ lực điển hình của gần như mọi người Việt tỵ nạn giai đoạn đó. Chen
chúc trong căn nhà nhỏ được cấp tạm cho người tỵ nạn, gia đình ông Lý lao vào
xã hội Mỹ với vốn liếng tiếng Anh gần như bằng không. Ông Lý phải làm ba
"job" để giúp gia đình. Ban ngày ông làm thợ hàn. Ban đêm ông làm
công nhân xưởng lắp ráp. Và cuối tuần ông làm nhân viên phục vụ nhà hàng. Trong
khi đó, vợ ông lãnh quần áo gia công về nhà may; và hai chị của Thắng-Jacky đi
làm nail sau khi học xong trung học. Jacky cũng phải đi làm thêm vào cuối tuần,
từ chạy bàn đến rửa chén, cho đến khi vào đại học và vào quân đội...
Khó có thể biết ông Lý Hội Quyền
nghĩ gì về tính mạng của mình cũng như vợ con vào thời điểm ông quyết định đưa
cả nhà đi vượt biên. Nhưng có điều chắc chắn rằng ông không thể tưởng tượng có
ngày mà cậu con trai duy nhất của ông, Vĩnh Thắng – Jacky, lại thành đạt hơn cả
sự mong đợi, với không chỉ hai bằng master (từ National War College và
Đại học Johns Hopkins), mà còn trở thành một sĩ quan cấp cao quân đội Hoa Kỳ.
Ông Lý Hội Quyền (từ trần năm 2012) – người mà Jacky luôn xem như là tấm gương
vĩ đại đối với mình – cũng khó có thể tưởng tượng một ngày mà con trai ông trở
về lại Phó Bảng với tư cách một sĩ quan quân đội Mỹ, ở cương vị Chánh Văn phòng
hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt, thực hiện các dự án hợp tác và tìm kiếm cơ hội hỗ
trợ những gia đình nghèo miền núi Việt Nam, nơi có bóng dáng những đứa trẻ lếch
thếch hệt Vĩnh Thắng ngày nào...
Đại tá Jacky Ly
Từng chỉ huy đại đội lính nhảy dù
mũ đỏ (thuộc 82nd Airborne Division) và tham gia chiến trường Afghanistan, Iraq, cũng như công tác
tại Hàn Quốc, Hawaii..., cuộc đời Jacky
Ly gắn liền với binh nghiệp. Nhập ngũ năm 18 tuổi khi vào Vệ binh North
Carolina với dự tính ban đầu chỉ phục vụ quân đội ba năm nhưng sau đó Jacky
không rời bộ quân phục. Jacky tốt nghiệp bằng cử nhân quản trị doanh nghiệp về
hệ thống thông tin máy tính từ Đại học Appalachian State. Trong thời gian quân
ngũ, ngoài những khóa đào tạo chuyên biệt trong quân đội, Jacky còn học
National War College, Đại học Johns Hopkins, và Trường tham mưu quân sự Malaysia.
Từng là Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng (Chief of the Office of Defense
Cooperation) trực thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Jacky còn là cố vấn quân
sự cấp cao và chánh Văn phòng Hợp tác An ninh trực thuộc Phái bộ Hoa Kỳ tại
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Jakarta, Indonesia. Đại tá
Jacky Ly sắp nhận nhiệm vụ mới tại Đông Nam Á với tư cách tùy viên quốc phòng.
Jacky
Ly (đi hàng đầu) vào thời điểm chỉ huy một đại đội nhảy dù (ảnh nhân vật cung
cấp)
Jacky Ly cùng bố và em
gái (ảnh nhân vật cung cấp)
Đại tá Jacky Ly cùng vợ và con (ảnh MK)
MK)